Chủ Nhật, 03/08/2025 11:48

Khói trắng bay lên

Nắng lên. Nắng đuổi từng đám sương nặng trĩu tan ra. Đến lúc ấy, đám người đẩy cà phê qua suối mới nhìn thấy cái xác rũ rượi... (Truyện ngắn của NGUYỄN THANH THÚY)

. NGUYỄN THANH THÚY
 

1.

Thế là ông Cẩn chết thật. Cái chết cô độc, câm lặng, nhưng có lẽ cũng đầy đau đớn.

Người đi chợ sớm nhìn thấy ông toòng teng trên cây sung lớn, ngay bên bờ suối Ea Sol. Con suối cạn, chảy từ đỉnh Cư Ban xuống, bảng lảng sương đêm. Sương trắng lẫn trong hơi nước lờ nhờ, mờ đục, la đà trên những tán cây.

Minh hoạ: Nguyễn Văn Đức

Nắng lên. Nắng đuổi từng đám sương nặng trĩu tan ra. Đến lúc ấy, đám người đẩy cà phê qua suối mới nhìn thấy cái xác rũ rượi, mờ ảo giữa không gian nhập nhoạng, sau gốc cây sung già. Đôi chân không chạm đất, hai tay buông thõng. Chẳng ai biết ông đã ở đó bao lâu rồi.

Người ta kinh hãi. Người ta thương xót. Nhưng người ta cũng ồn ào. Chuyện ồn ào kéo dài cả tháng sau đó. Dù gì thì ở nơi hẻo lánh, buồn tẻ này, chuyện một con người tử tế tự kết thúc sinh mệnh của mình cũng là chuyện lớn. Chuyện động trời, chưa từng có ở đất Ea Hao.

Nhưng vì sao người đàn ông tử tế đó lại tự mình chết ở đây? Chẳng ai biết được. Lão già khắc khổ đó cả đời chỉ vò võ một mình. Thứ quý giá nhất đối với đời lão, là người vợ đẹp như đoá lan hoàng thảo, đã bỏ lão đi hơn chục năm về trước. Người thân còn lại, là kẻ lão coi như đứa em ruột thịt của mình, một gã du thủ du thực, dân anh chị khét tiếng một thời ở bãi vàng Ea Xiêm, sau thời gian nghiện ngập, đến ngày nằm liệt một chỗ thì mang cái thân xác tàn tạ về hành tội lão nửa phần đời còn lại. Vậy mà lão vẫn âm thầm chịu đựng. Lão lăn lưng làm đủ nghề để nuôi cái thân xác tàn phế không chút máu mủ với mình suốt mấy chục năm ròng, không một lời oán thán. Như thể lão nợ đời, nợ cõi trần tục này, phải dùng hết mấy chục năm dương thế để trả cho bằng sạch.

Trong vòng một năm mà người trẻ chết trước, người già chết sau. Căn nhà gỗ ba gian nằm trên lưng đồi hiu hắt gió, bạt ngàn cúc quỳ mọc dại trở thành nơi để người ta thêu dệt bao nhiêu chuyện u ám, kì lạ. Người này tò mò, người kia ác khẩu, nhưng cũng không ít người thương cảm. Dẫu sao, lão Cẩn cũng đã làm tròn bổn phận của mình, là chỗ dựa duy nhất của đứa em không cùng máu mủ kia cho đến ngày cuối cùng. Người ta nhớ lại cái cảnh lão Cẩn ngồi như cái xác không hồn trong đám ma năm trước. Phải chăng, lão đã đợi ngày này lâu lắm rồi?

Lão đợi ngày người đó chết, để lão cũng rảnh nợ mà chết quách đi chăng?

 

2.

Thật ra, người đàn bà đó đã xuất hiện, ngay trong đám ma ông Bang. Không ai biết bà đứng lẫn trong đám người đến viếng. Tiếng nấc ậc lên sau lớp khẩu trang che kín mặt, chỉ còn đôi mắt đẹp, man mác buồn, khuất sau vành nón. Người đàn bà vội vã quay lưng, rời khỏi nơi khói hương nghi ngút đó. Tướng đi như chạy. Không ai biết, không ai để ý tới người đàn bà lạ giữa xô bồ dòng người dự đám. Nhưng ông Cẩn biết.

Ông nhìn theo bóng người đã khuất. Đôi mắt già nua ánh lên thứ ánh sáng lấp lánh nhưng cũng đầy bi ai. Chỉ một khắc, rồi thôi. Ông già lại cụp đôi mắt đục ngầu nhìn về nơi cũ, chỗ có bát hương nghi ngút khói. Ông ngồi đó, bất động, rất lâu, suốt mấy ngày trời. Màu khói nhang trùm lên bóng dáng gầy khô, lỏng khỏng. Sau đám tang, khói đã nhuộm tóc ông thành một thứ màu rất khác, lờ nhờ. Thứ màu đục như khói.

*

*           *

Đi đi, Cẩn à, đi tìm vùng đất mới, rời xa nơi núi đồi trơ gió, nơi hạt ngô muốn nảy mầm phải len mình đội lên từ kẽ đá, nơi mỗi bước chân người phải đặt lên đá mà đi. Đi đi, Cẩn à… Băng qua hết Lũng Pán, đến Lũng Làu, tìm thằng Bang, đưa nó cùng theo. Đó là cái ơn không bỏ được.

Cẩn đã đưa Bang vào Nam theo lời dặn của bố mình. Lời dặn của người già trước khi bước qua thế giới khác luôn có một sức nặng vô hình. Sức nặng đó, đôi lúc Cẩn đã cố tình rũ sạch, nhưng rồi nó vẫn quay về, đè lên tim Cẩn, nặng cả một đời người.

Năm Cẩn mười bốn tuổi, một lần trèo cây ngã, xương vai đội lên tới tai, một bên người cong vênh lên, tưởng chết. Bố Cẩn cõng thằng con mang tới nhà ông lang Bằng, nổi tiếng nhất vùng Quảng Hoà ngày ấy. Lang Bằng rút xương, chỉnh lại khớp, bó thuốc hơn nửa năm thì khỏi hẳn. Nhớ ân tình đó, bố bắt Cẩn mang gà thiến qua nhà lễ ông Bằng, nhận làm bố nuôi. Tận sau này, khi lang Bằng mất, thanh minh hàng năm, Cẩn đều tìm về, cùng Bang, con trai lang Bằng đội gà trống thiến, xôi nếp ra đồng tảo mộ.

Những ngày đầu vào Tây Nguyên, Cẩn và Bang đi vác mây thuê kiếm sống, dầm dãi suốt vùng rừng Ea Xiêm. Nơi đây có những bãi vàng lớn. So với những bãi vàng ở Phú Túc, Kim Tân, Ia Pô…, bãi vàng Ia Xiêm có quy mô lớn hơn cả. Có thời điểm hàng chục chủ hầm kéo vào mỗi ngày tranh lãnh địa. Máy xay đá nổ ầm ầm suốt ngày đêm. Dân tứ xứ tập trung về có khi lên đến hơn ngàn người. Cả một vùng đồi núi bị đào xới nham nhở. Cả Cẩn lẫn Bang đều bị lóa mắt bởi vàng. Đó là những ngày tháng bắt đầu cho chuỗi đời đầy tham vọng, tha hoá, đớn hèn lẫn khổ đau mà cả Cẩn và Bang đã hùng hục lao theo, như những con thiêu thân.

Bỏ làm mây, cả hai đầu quân ngay cho một chủ hầm người Phú Yên tên Hải. Hải ăn to nói lớn. Y có ba hầm vàng nằm sát gần nhau, nuôi hơn bốn mươi quân. Hầm vàng của Hải gặp trúng nền đá vỉa, từng tầng vỉa chồng lên nhau, đào sâu hơn chục mét vào lòng đất. Lấp lánh trong đá là những đường vân vàng. Vài tháng trời phơi lưng ra đãi vàng ở bãi, Cẩn và Bang đen trũi, gầy trơ, chỉ còn hai con mắt. Nhưng hai con mắt càng lúc càng sáng rực, hau háu, thèm khát. Tận lâu sau này, ông Cẩn vẫn không biết vì sao lúc ấy cả ông, cả thằng Bang, và tất thảy dân bãi vàng lại say máu như vậy. Sống trong cái khổ lâu ngày, khi được ở gần thứ có thể làm cho con người ta đổi đời, người ta nghĩ đã chạm tay được vào bờ sống khác, người ta sẵn sàng đổ máu, bán mạng vì nó chăng?

Gần ba tháng lên bãi vàng, trải qua hàng chục lần sinh tử vì đánh nhau với đám cướp hầm, toàn dân Phú Yên, Nha Trang, Quảng Ngãi đến, cái vẻ lì lợm, bạt mạng của Cẩn càng lúc càng được khắc rõ ràng hơn trên mặt, trong mắt. Bang cũng gần như biến thành con người khác. Nhiều toán cướp vàng, phá hầm, trấn lột còn mang cả súng lên bãi thị uy. So với gặp lực lượng truy quét của chính quyền thì gặp đám cướp bãi vẫn là chuyện đáng sợ hơn. Nhiều hầm bị cướp sạch, quân phu chạy tán loạn, khi quay trở lại, máy móc, xe cộ, cái gì dỡ ra mang đi được cũng bị cướp sạch sẽ. Chủ hầm trắng tay. Cẩn to lớn lại lận lưng nhiều ngón võ cổ truyền nên trong thời gian ngắn đã trở thành một trong những cái tên khét nhất bãi vàng Ea Xiêm. Chính Cẩn là người hiến kế cho Hải phương án liên kết các chủ hầm lại với nhau để bảo vệ bãi. Hơn chục kẻ bặm trợn làm chủ mấy chục hầm vàng gạt bỏ bản mặt hằm hè với nhau để cùng bắt tay nhau chống lại đám cướp du thủ du thực. Hầm trước, hầm sau, hầm trên cao, hầm dưới bãi, bất cứ nơi đâu xảy ra chuyện là hàng trăm phu vàng sẽ gác mâm, gác cuốc tập trung hỗ trợ. Người lạ, lực lượng truy quét xuất hiện từ dưới chân núi, dân phu trên bãi đã biết từ xa. Sau nhiều biến cố, những tháng sau đó, Cẩn được lão Hải tin tưởng bốc đến chòi khò vàng.

Khác với Bang được phân công quản lí dân phu, suốt ngày dầm mặt ngoài bãi đãi, Cẩn được ngồi trong chòi mát. Chỉ hơn một tuần Cẩn đã cầm ống vọt khò nhuyễn tay như thợ cứng. Ngày nào như ngày nấy, sáng bửng mắt ra đã cầm cục vàng trong tay. Tối ngủ mới rời máy, rời vàng. Lòng tham trỗi dậy mạnh mẽ như một lẽ tất yếu, không một thước đo nhân phẩm, liêm sỉ nào tồn tại được trong hoàn cảnh đó. Cẩn cũng thế. Vàng đã cuốn Cẩn đi rất xa, bồng bềnh, sung sướng trong viễn cảnh đầy lấp lánh. Ít lâu sau khi ngồi vào máy khò, Cẩn đã tìm được mánh lới ăn bớt vàng. Thỉnh thoảng, trong đống sái vàng ngổn ngang, Cẩn ngắt đi một ít vùi xuống nền đất ngay chỗ mình ngồi. Tháng nào về nhà, Cẩn cũng nhặt nhạnh, gom lại được non một chỉ. Cẩn biết cách để tiết chế lòng tham, mỗi lần mỗi ít, như con kiến tha lâu ngày đầy tổ. Cẩn đủ khôn ngoan để biết, tham nữa là chết. Giữa viễn cảnh xa hoa và cái chết, chỉ cách nhau gang tấc. Cẩn trọng, đó là cách tốt nhất để tồn tại.

Nhưng viễn cảnh tốt đẹp không kéo dài được lâu. Bãi thiếu thợ khò, hơn sáu tháng trời sau đó Cẩn dính luôn ở bãi, tiệt không được về nhà. Sái vàng giấu dưới nền đất, có lẽ lên đến cả chục cây. Cẩn ước lượng thế, bụng bảo dạ, đợt nghỉ Tết sẽ gom về một thể, tiện thể sửa được mái nhà, giúp thêm tiền cho thằng Bang cưới vợ. Thằng Bang đã dặm sẵn đám với con bé Liêu cùng xóm, cũng là dân kinh tế mới vào Tây Nguyên. Gia đình bên ấy không chê những đứa như Cẩn, như thằng Bang là đám thanh niên nghèo kiết, không cha không mẹ, thế đã là cái phúc. Liêu lại xinh xắn, hiền lành đến thế. Thằng Bang lại cũng mê nó như điếu đổ thế. Thôi thì, cứ lo cho nó trước, rồi anh em phải kiếm cái nghề khác để mưu sinh. Bãi vàng này, đâu thể tồn tại mãi được, đâu thể bán sức trai trẻ ở nơi này mãi được.

Hai anh em bàn với nhau như thế, nhưng người tính không bằng trời tính. Cẩn bất thình lình dính sốt rét. Cơn sốt như một trận phong ba ập xuống bất ngờ, quật Cẩn ngã nhào, nhừ tử. Cẩn hôn mê suốt hai ngày, Bang phải huy động cánh thợ treo võng cõng ra khỏi rừng. Trong cơn mê tỉnh, Cẩn còn kịp nhìn thấy nền nhà ánh vàng sáng rực lên. Cẩn sốt li bì hơn tháng trời sau đó, uống kí ninh đến rạc người, thân xác thanh niên quắt như cò rũ. Sau Tết, người còn nhử nhừ như kẻ thiếu máu, Cẩn đã vội vã lê người lên bãi vàng trở lại. Nền đất nơi Cẩn ngồi ai đó đã xới cả lên, hơn chục cây vàng đã găm xuống biến mất, sạch sẽ như chưa từng tồn tại. Té ra, sau khi Cẩn đổ bệnh, thằng Bang là người được thay ngồi vào chỗ đó. Cẩn thở phào, nếu là thằng Bang, thì số vàng đó hẵng còn, chẳng mất.

Cẩn lôi Bang ra bìa suối thậm thụt. Kì lạ là, mặc cho Cẩn trước ngọt sau nhạt, thằng Bang vẫn một mực lắc đầu. Thế thì số vàng đó ở đâu? Cẩn thẫn thờ, buông tay bất lực. Bãi vàng bao nhiêu người, biết ai mà nghi. Mà ai thì có làm sao, số vàng đó cũng nào có phải là của riêng Cẩn? Bẽ bàng, buồn bực, Cẩn bỏ bãi về nhà, về hẳn, ai thuê gì làm nấy. Thời gian sau, Cẩn mới biết được. Té ra trước Tết năm đó, thằng Bang về nhà đã mang theo rất nhiều sái vàng. Không khò được, cũng không nhờ ai được, nó mang ra tiệm vàng để thuê người khò giúp. Nhưng cánh thợ kim hoàn gian manh, nhiều mánh lới, lúc khò vàng thì mạnh chân đạp bàn con cóc. Hơi thổi phò phò, vàng bay tứ phía. Số vàng bay ra đó, sau nhặt nhạnh lại chí ít cũng được vài phân. Thằng Bang nóng mặt gây sự rồi đánh nhau với đám thợ kim hoàn. Nghe nói trận đó cũng lớn. Đó là lần đầu tiên, Cẩn thấy mình bị phản bội. Cơn giận trong người Cẩn xốc lên tới não, ngùn ngụt. Cơn giận nuốt cả đầu óc lẫn thân xác con người ta, gieo vào đó những mầm mống tai hoạ không lường trước được.

 

3.

Đó là một chiều xâm xẩm, gió thổi từ trên đỉnh Cư Ban xuống u u, lạnh buốt thịt da. Năm nào cũng vậy, cứ độ tháng mười hai, khi đất trời còn dầm dãi trong cái lạnh, đó là lúc núi rừng Cư Ban vào mùa đót chín. Từ lưng chừng đỉnh Cư Ban trở lên, đót chuyển sắc trên khắp nẻo đường. Những con dốc ven làng, đường đi lên rẫy, đến những mảng đồi xa, lưng chừng vách núi, hoa đót đổi màu, nở từng cụm phớt tím, lấn dần màu xanh giữa bao la, trùng điệp. Người làng Ea Hao đổ lên rừng hái đót. Liêu cũng mang theo cơm nắm lên rừng từ sáng sớm. Tận lúc chiều muộn, khi từng vạt đồi tím thẫm đã bắt đầu ủ mình trong sương đêm, trĩu trịt, Liêu mới cõng đót đổ xuống con dốc dẫn về làng. Từ trên cao nhìn xuống, từng bếp nhà Ea Hao đã đỏ lửa, lập lòe trong se sắt sương giăng. Người làng đã về đến chốn cả, chỉ còn mỗi Liêu ham công tiếc việc mà rớt lại sau cùng. Liêu rảo bước nhanh, chỉ một đoạn đường nữa thôi, qua bên kia suối là về đến làng.

Một bóng áo chàm nhanh như gió lướt vụt qua, dừng ngay trước mặt Liêu. Thoáng chút giật mình, Liêu định thần nhìn rõ, thì ra là anh Cẩn. Anh Cẩn cũng đi rừng về đây mà. Liêu mừng rỡ, ít ra cũng gặp được người quen đây rồi.

“Liêu về muộn thế, đưa đây.”

Cẩn vòng tay ra sau giúp Liêu gỡ bó đót tươi to sụ, nặng trĩu sau vai.

“Không cần đâu mà”, Liêu đáp.

Nhưng Cẩn chẳng để lời Liêu vào tai. Đổi đót sang vai mình, Cẩn quay lại bảo:

“Liêu mang hộ tôi gùi thuốc, cái đó nhẹ thôi.”

Cả hai cùng nhau băng qua suối. Bóng tối sầm sập đổ nhanh xuống chân núi Cư Ban. Nước suối lạnh như từng tảng kim châm, quấn lấy chân hai người. Liêu cảm giác như đôi ống chân vừa mới bị cắt ngang. Hơi nước, hơi sương từ trên núi đá trùm xuống, táp vào thịt da, lạnh cóng. Cẩn đỡ tay Liêu qua ghềnh đá. Hơi thở nồng nồng, âm ấm phả vào mặt Cẩn. Qua hết suối, Cẩn đặt bó đót vào dưới gốc cây sung lớn, ngồi phệt.

“Nghỉ tí đã, Liêu ạ.”

Liêu thấy có lỗi, cũng gỡ gùi thuốc, ngồi xuống.

“Nặng lắm à, anh Cẩn?”. Liêu hỏi, Cẩn im lặng lắc đầu. Nước chảy róc rách qua dưới gốc cây sung già, thỉnh thoảng, vài luồng nước siết đập mạnh vào gốc sung chìa ra bên dưới, nước bắn lên cả phía trên bờ, rào rạt từng tràng như mưa. Bất ngờ, Cẩn kéo tay Liêu ngã nhào vào lòng mình, hai tay ôm ghì lấy cơ thể Liêu nóng ấm.

“Sao lại thế, buông tôi ra.”

Liêu vùng vẫy nhưng không thoát được đôi cánh tay dài rộng, chắc nịch ấy. Liêu bị đè nghiến xuống bờ cỏ tre, bị lật tung từng mảnh vải trên người. Liêu hoảng hốt, Liêu la hét. Nhưng tiếng hét chìm nghỉm giữa núi đồi Cư Ban.

“Dừng lại ngay đi, tôi là gái sắp có chồng mà.”

Cẩn mặc kệ.

“Anh điên rồi, Cẩn. Tôi là vợ anh Bang mà”

Cẩn mặc kệ.

“Bỏ ra, thằng Cẩn, anh Bang sẽ giết mày.”

Cẩn càng hung bạo. Liêu nhỏ bé bị chôn chặt xuống bờ cỏ. Chỉ biết dùng hai bàn tay đã bị lá đót cứa ngang, rát ngọt từ sáng nay, hết bấu bờ cỏ lại đến cào xé Cẩn. Nhưng Liêu bất lực. Buổi chiều ấy đã không có phép màu nào xảy đến, không một ai hay biết để cứu giúp Liêu. Liêu bị Cẩn lột trần truồng trên bờ cỏ, hùng hổ xâm chiếm, trọn vẹn.

Xong việc, Cẩn vật ra trên bờ cỏ, nằm cười khành khạch. Còn Liêu thì khóc, úp mặt vào gốc sung mà khóc. Chẳng biết qua bao lâu, Cẩn đứng dậy, giục:

“Về thôi”.

Liêu mò mẫm trong bóng tối, muốn tìm chiếc liềm dắt trong bó đót để băm vằm đứa đàn ông đốn mạt trước mặt mình. Nhưng bó đót đã được Cẩn vắt lại lên vai, cả gùi thuốc Cẩn cũng đeo lên phía trước ngực. Liêu lại ngồi sụp xuống, co ro khóc, mặc kệ cái lạnh tái tê trùm lên thân thể, tả tơi, rã rượi.

“Về thôi, ở lại đây lâu, cả làng biết chuyện đấy.”

Cẩn lại giục. Liêu choàng tỉnh, vơ lấy quần áo đắp lại lên người.

Cẩn đi trước, Liêu đi sau, hai người cứ thế về làng. Đến cửa nhà Liêu, Cẩn đặt bó đót xuống trước sân, rồi quay quả bước đi một mạch.

Hai tháng sau đó, Liêu về làm dâu trong nhà Cẩn. Người ở Ea Hao ngỡ ngàng. Liêu không làm vợ Bang mà là vợ Cẩn. Cuộc đời cứ trớ trêu như thế, kì lạ như thế đó. Thế mà vẫn cứ thế xảy ra. Chẳng ai biết lí do. Người ta chỉ thấy, hôm đám cưới, Bang trở về, gửi quà mừng lễ, nhìn Cẩn, cái nhìn của kẻ đã trả xong món nợ rồi đi ngay. Từ đó Bang ở rịt trên bãi vàng, chẳng về lại làng lần nào nữa.

 

Minh hoạ: Nguyễn Văn Đức

Cẩn thoát khỏi cơn mê vàng, bàng hoàng như một người vừa thoát khỏi cơn u muội. Nhưng Bang thì không thế. Nghe nói sau đó, Bang có vốn nên tự đứng ra thuê máy móc, chiêu mộ phu thợ, làm chủ hầm vàng, quyết tâm làm giàu. Nhưng Bang không có số trúng vàng. Bang nuôi hơn ba mươi quân, một ngày ăn hết hai bộ lòng bò, nhưng đào mãi không trúng vỉa. Những hầm lân cận, có ngày được cây tư, ngày héo hắt cũng được hơn tám chỉ. Bang thì nuôi công sạt nghiệp. Ông trời, nghĩ cũng khéo trêu ngươi người ta lắm. Đến mùa mưa năm ấy, một trận lở lớn kéo theo đất đá từ trên núi đổ ập xuống, vùi luôn cả máy xúc. Bang vét hết số tiền còn lại thuê người đào máy xúc lên nữa thì sạch sẽ. Không một xu dính túi, Bang lang thang làm phu cho những hầm quanh đó. Rồi sau nghe ra nghiện ngập. Hết nghiện thuốc phiện thì chuyển sang heroin. Một ngày, người ta khiêng Bang về trong hình hài xơ xác, bỏ lăn lóc ở trạm xá. Nghe nói trước khi tàn phế, Bang đã là tay đâm thuê chém mướn khét tiếng nhất bãi. Các chủ hầm nuôi Bang bằng ma tuý. Nhưng núi cao còn có núi cao hơn. Trận giao chiến cuối cùng, Bang bị chém trọng thương cột sống, liệt hẳn.

Cẩn nghe tin, bàng hoàng như người thoát khỏi cơn mê lần nữa, lập cập tìm lên trạm xá, đưa Bang về nhà. Cẩn ôm lấy cái thân tàn phế tả tơi hậc lên mà khóc. Liêu câm lặng ngồi nhìn. Độ chừng mươi hôm sau thì Liêu biến mất. Liêu đi đâu chẳng ai rõ. Chỉ có Cẩn biết, và chấp nhận, như không thể làm khác được. Từ ngày về với Cẩn, Liêu chỉ như một cái xác. Cái xác không bao giờ chấp nhận chung đụng với Cẩn thêm một lần nào nữa.

 

4.

Ông Cẩn kê chiếc bàn nhựa vào sát chân giường, dọn ra bộ bàn đèn đã cũ, đen ố. Ông thoáng thấy ánh mắt của Bang như sáng lên, lấp lánh. Ông lóng ngóng đổ ra mấy viên thuốc tự chế, châm ngọn đèn mỡ lợn. Thứ mỡ này, tự tay ông thắng. Đó là thứ mỡ lợn ngon nhất, lựa từ phần trắng nhất, thắng từ từ cho rút ra hết mỡ. Mỡ ra lặng lẽ, không sủi tăm, lọc không còn cặn. Đó mới là thứ mỡ sẽ quyện cùng với khói thuốc, đi qua cuống họng người ta tới tận cùng đáy phổi, thổi vào đó những luồng nóng đê mê. Trước kia ở làng ông, người giàu có thường dùng cả mỡ gà. Bằng không thì chỉ cần mỡ lợn ngon đã đủ cho một mẻ thuốc quên lối về. Ông hơ cái nhĩ tẩu cho nóng lên. Cái tẩu đóng màu thời gian, chẳng biết đã qua tay bao nhiêu người nằm chiếu. Cái lỗ tẩu đó, bé như móng tay, nhưng là thứ người ta thường ví von đã nuốt trọn bao nhiều trâu bò, đất đai, nhà cửa. Tất cả đều chui tọt vào đó, cháy thành than, thành sái. Ông nướng cho kim tiêm đỏ lên rồi dùi vào hạt thuốc. Loại kim tiêm này, có lẽ được rứt ra từ cái nan hoa xe đạp nào đó, đã đen sạm. Hạt thuốc bé xíu, không đen như dầu hắc mà nâu xỉn. Trong đầu ông hiện lên bao nhiêu cảnh của những ngày xưa cũ. Trên sàn nhà, trong góc tối, năm bảy người trong họ, từ thanh niên đến ông già túm tụm ngồi nặn sái thuốc cùng nhau. Sái thuốc cũ trộn với thuốc mới theo tỉ lệ nhất định, viên thành hạt. Những hạt thuốc bé nhỏ đó, trông vậy mà quật ngã được biết bao thân xác người. Góc khác, vài ba người nằm cùng nhau, ngả đèn hút với nhau, cả đêm, cả ngày. Người hút thuốc vào nói chuyện thâu đêm chẳng biết chán. Khói thuốc phiện đi qua người họ đã thổi vào đó một viễn cảnh bồng bềnh, tiêu sái, nhấc họ hoàn toàn ra khỏi hiện thực bần hàn, nhếch nhác hiện tại. Thế giới đó chỉ còn màu của khói thuốc. Tất cả chầm chậm chạy qua trí óc ông như những thước phim. Người ông run lên.

Ông cẩn thận hơ hơ hạt thuốc trên ngọn đèn mỡ lợn leo lét cháy. Cho đến khi hạt thuốc đã nóng mềm quanh bốn phía thì dùi thuốc vào lỗ nhĩ. Mùi mỡ lợn, mùi thuốc chớm lửa quyện vào nhau. Ông thấy cay cay mắt.

Ông lóng ngóng hơ nhĩ tẩu lên trên ngọn đèn, vừa hơ vừa dùi, vừa canh đưa miệng tẩu vào gần người nằm. Ông Bang hấp háy chờ đợi, bập được miệng tẩu thì rít lấy rít để. Hơi rít sòng sọc đi qua cuống họng, tạo thành thứ âm thanh se sẽ, rin rít, rồi ào ạt tràn ngược trở ra những làn khói xám ngoét, khét mù, không thơm như mùi thuốc phiện. Khói tràn ra chung quanh, phập vào mặt, vào cổ ông Cẩn, rồi mỏng tang, nhẹ nhàng bay lên. Bỗng nhiên, ông Bang khựng lại, phun ra một tràng ho dữ dội, nước từ khoé mắt tứa ra, giàn giụa. Ông ngước đôi mắt nhoè đỏ nhìn lên. Cái nhìn nửa ngỡ ngàng, nửa thất vọng, như chứa trong đó hàng ngàn câu hỏi. Ông Cẩn cố quay mặt đi chỗ khác, thấy sống mũi mình nghẹn cay.

Ông Bang nhắm mắt, lại tiếp tục bập vào miệng tẩu. Ông Cẩn he hé mắt canh tẩu thuốc cho đúng ngọn đèn, thỉnh thoảng lại dùi kim tiêm thuốc. Ông thấy lòng chua xót, ông nhớ gương mặt xám bủng, khô đét của Bang những ngày còn nghiện, cả những ngày tháng vật vã thèm thuốc khi mới nằm liệt như lúc này đây. Cả một đời người đã đi qua như vậy đấy. Nước mắt ông cũng tứa ra. Có lẽ, cũng chỉ còn lần cuối này nữa thôi. Sắp đến lúc rồi. Hút đi, Bang à, một lần này nữa thôi.

Cả tháng nay rồi, ông Bang nằm đó, ngước đôi mắt thất thần nhìn bóng người đi lại. Đôi lúc, ông Cẩn nghĩ, không biết trong đôi mắt đó có còn hồn người nữa không, có biết ngày, biết đêm, biết sáng tối nữa không. Một bữa, ông Bang nhìn thẳng vào ông Cẩn, khẽ khàng:

“Chắc tôi chết thôi.”

Ông Cẩn giật mình, quay lại mắng:

“Sao lại nói gở thế!”

Ông Bang vẫn đều đều, giọng nói như gom hết sinh lực từ tận cùng sức kiệt:

“Thật, người tôi, tôi biết.”.

Ông Cẩn im lặng, ông Bang tiếp lời:

“Anh Cẩn này, tôi thèm thuốc quá, cho tôi hút một lần nữa, rồi chết. Nhé!”

Ông Cẩn không nói gì. Nhưng những ngày sau đó, ông Cẩn biết, ông Bang đợi. Mỗi lần ông Cẩn mang cơm, ông Bang vẫn ngước đôi mắt dáo dác nhìn khắp lượt những thứ được đưa vào. Ông bỏ bữa, cơm cháo chẳng ăn được mấy. Vết loét trên lưng ngày càng lở rộng hơn ra. Ông Cẩn suy nghĩ suốt mấy đêm. Bàn đèn thì dễ kiếm đấy. Bộ bàn đèn ông Chìa già cuối thôn vẫn còn giữ, ôm kè kè theo bên mình như đồ gia bảo đấy thôi. Không mượn được thì trả tiền thuê. Ông sẽ tự tay tiêm thuốc phiện cho đứa em này, lần cuối cùng.

Nhưng còn thuốc phiện, giờ thì biết tìm đâu ra? Suy nghĩ suốt mấy hôm, ông Cẩn quyết định băng đường mòn qua Ayun Pa, tìm đến tận vùng thuốc lá Ayun Hạ. Ông nhờ dân trồng thuốc kiếm cho được ít nhựa cây thuốc lá. Thứ nhựa nâu sẫm, dính rít trên tay người thu hoạch. Ông mang thứ nhựa ấy về, trộn cùng với một ít vụn thuốc lào cà mịn. Thứ thuốc không giống ai này, chẳng so sánh được với thứ ông Bang đang cần. Nhưng chẳng còn cách nào khác, ông còn biết làm gì hơn?

Hút xong một điếu, ông Cẩn rót chén trà móc câu, nóng hổi, đưa vào tận miệng. Ông Bang chích vài ngụm nước trà, mắt nhắm nghiền, tận hưởng. Cái thú của dân rít tẩu, sau một điếu mà làm được chén trà móc câu, là thú lắm. Trà có nóng mấy cũng chẳng thành vấn đề nữa. Ông Cẩn biết thế, rành thế. Nhưng lòng ông lúc này chẳng hiểu sao lại đau như vò thế.

Tất cả đều hoàn hảo, trừ việc đó chẳng phải là thuốc phiện.

Chừng lúc sau, ông Bang lim dim mở mắt, ông Cẩn hỏi nhỏ:

“Thêm một điếu nhé?”

Ông Bang gật đầu.

Lại dùi, lại tiêm, lại rít. Khói lại xộc ra, bảng lảng bay lên. Cái màu khói thuốc đã đi qua biết bao năm tháng trong đời ông Cẩn. Từ miền cố hương, tận cùng vùng Đông Bắc của đất nước, cho đến bây giờ, khi đã đi thật xa, đã vào đến đất Tây Nguyên này, khói thuốc vẫn còn luẩn quẩn, chẳng chịu buông. Nước mắt ông Cẩn lại tứa ra. Hơi thở từ đâu dồn tức lên lồng ngực. Không nhịn được nữa. Ông tông cửa bước thẳng ra ngoài trời, đứng bấu ngay gốc cây mác mật. Cứ thế, ông già ậc lên mà khóc. Mái tóc đã hai màu xen lẫn nhuốm vào nhau, rung rung úp ngay vào gốc cây, ông khóc ngon lành.

Chừng khi không khí tươi mới ngoài trời ùa vào lồng ngực, ông vẫn đứng hồi lâu như thế.

Cho đến lúc nắng già lên cao, hơi nóng hập xuống đỉnh đầu, ông Cẩn mới tỉnh người, quay lại gian buồng nhỏ. Ông cẩn thận vén cửa, giũ giường, phe phẩy quạt cho mùi thuốc bay bớt đi. Ông Bang vẫn nhắm mắt nằm im như cũ. Có lẽ, ông đang ở trong một cõi khác. Ở đó, nỗi ám ảnh khói thuốc đã vơi đi phần nào. Ở đó, nỗi đau xác thịt đang lở loét, hành hạ hẳn đã nhẹ đi, cũng không còn mùi nước đái và phân người hôi hám bủa vây nữa.

Ông Cẩn lặng lẽ dọn bàn đèn.

Chừng hai hôm sau đó, ông Bang trút hơi thở cuối cùng.

 

5.

Ngôi nhà ba gian nằm trên lưng đồi bạt ngàn cúc quỳ mọc dại vẫn sáng đèn. Bên trong, trước hai tấm ảnh thờ, nhang khói vẫn nghi ngút ngày đêm. Ngoài gốc sung, đúng nơi có luồng nước siết đập mạnh vào gốc cây chìa ra bên dưới, nước bắn lên cả phía trên bờ, ấy là nơi ông Cẩn chết, ai đó cũng đã dựng dưới gốc một cái am nhỏ. Cái am nép mình vào một góc, cũng nghi ngút khói hương.

Người ta đã thấy bóng người ra vào ngôi nhà đó. Lặng lẽ, từ ngày này qua ngày khác. Là một người đàn bà có đôi mắt đẹp, buồn vương.

N.T.T