Thứ Ba, 02/12/2025 16:35

Khi tác giả là nguyên mẫu

Trong thời gian này tôi cùng trung đội ở trên chốt rất gần địch. Trận địa tôi chỉ cách khu nhà hòa hợp chừng 1 cây số... (NGUYỄN TRỌNG LUÂN)

NGUYỄN TRỌNG LUÂN
 

Tôi rời trường đại học đi bộ đội năm tròn 20 tuổi. Phải nói vào tuổi ấy ở đơn vị huấn luyện quân đi B bọn tôi vào loại cứng tuổi. Những năm đánh Mĩ lính ta chỉ 17, 18 tuổi đã lên đường rồi. Chúng tôi hành quân vượt Trường Sơn 3 tháng ròng rã thì vào đến chiến trường. Năm ấy là năm 1972, lính ở chiến trường Tây Nguyên rất đói. Con đường vận chuyển lương thực từ Campuchia về bị ách tắc bởi nhiều lí do. Bộ đội ăn sắn, ăn măng vẫn đánh trận. Mọi sinh hoạt tác chiến của lính Tây Nguyên vô cùng thiếu thốn. Quả thật hồi đó bộ đội ta chả có ai nặng đến 60 kí mà đa phần chỉ tròm trèm 50 kí đổ lại. Sư đoàn tôi vừa qua một chiến dịch chiến đấu cắm cờ giành dân mở rộng vùng giải phóng trước khi Hiệp định Paris kí kết. Sau ngày 27/1/1973 đơn vị nào cũng thiếu quân, thiếu thuốc, ốm đau, sốt rét và nhất là thiếu gạo.

Tôi được bổ sung vào Đại đội Bộ binh thuộc Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 đang giữ vùng giải phóng phía tây Pleiku. Tiểu đoàn tôi chỉ cách địch 2 cây số và hàng ngày địch vẫn pháo kích vào những cánh rừng nghi có quân ta. Những ngày này chúng tôi được rèn quân tại chỗ để thi hành Hiệp định Paris. Giữa trung đoàn tôi và phía quân địch có một phần ranh giới được xây dựng một căn nhà hòa hợp. Ở đó hai bên đều cử người của mình ra gặp gỡ nhau nhằm trao đổi tâm tình mong muốn cảm thông với tinh thần cùng máu đỏ da vàng, đồng thời giám sát tình hình chấp hành các điều khoản của Hiệp định đề ra. Mặc dù lập ra nhà hòa hợp nhưng chỉ được vài tuần là tan rã vì chả bên nào chịu nghe bên nào trong việc thi hành không lấn chiếm đất của nhau. Chiến sự lại tiếp diễn. Và bắt đầu là phía Việt Nam Cộng hòa cho cấp tiểu đoàn hành quân lấn chiếm. Sau đó chúng đưa cả các trung đoàn hành quân lấn sâu vào vùng giải phóng của ta.

Trong thời gian này tôi cùng trung đội ở trên chốt rất gần địch. Trận địa tôi chỉ cách khu nhà hòa hợp chừng 1 cây số. Tôi bị sốt rét những vẫn phải ở lại chốt vì chưa đến mức ác tính vẫn chiến đấu được. Tôi nằm co ro trong hầm gối đầu lên đôi dép cao su của mình. Thú thật mùi dép cao su khiến tôi nhớ nhà vô cùng. Tôi nhớ ngày ở quê học cấp 3 vẫn đi chân đất chỉ ước ao mẹ mua cho đôi dép cao su. Mãi cho tới ngày vào đại học tôi mới có đôi dép cao su. Cũng trong những ngày nằm chốt tôi mới được biết chuyện cắt đoạn thừa đầu dây dép dưới đế để đốt lên soi vết thương của đồng đội mà băng bó. Là lính mới vào chiến trường nên chúng tôi mỗi người có một cuộn dây dép dài hơn một mét để dùng dần. Các anh lính cũ bảo đó là của quý đấy liệu mà giữ. Cũng những ngày sốt rét đó tôi được nghe kể chuyện về một chiến sĩ rất chi là nghịch ngợm cắm cái nhiệt kế vào chiếc bánh sắn mới luộc làm nổ nhiệt kế khiến người lính này bị kỉ luật rất nặng là khai trừ Đoàn. Bao nhiêu chuyện diễn ra ở đại đội tôi, vui có buồn có, những chuyện vừa cười vừa chảy nước mắt trong những ngày chiến đấu gian nan. Nhưng có lẽ ám ảnh nhất với tôi là chuyện một chiến sĩ thông tin đi với tiểu đoàn bộ binh chúng tôi bị kỉ luật vì mở sóng vô tuyến dò ra sóng của địch và hai người lính nói chuyện với nhau về nhớ nhà nhớ mẹ cha, rồi hát cho nhau nghe. Người lính Việt Nam Cộng hòa đề nghị lính thông tin bên ta hát bài Trông cây lại nhớ tới Người. Còn anh thông tin nhà ta muốn người lính bên kia ca vọng cổ. Sự việc nghiêm trọng đến nỗi chiến sĩ thông tin của đơn vị tôi cũng lại bị khai trừ khỏi Đoàn và đi làm anh nuôi ở phía sau.

Khi viết truyện ngắn Đại gia dép lốp (đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 971+972, tháng 8/2021), tôi gom những câu chuyện ở đơn vị tôi vào nhân vật Tiến tức là tôi. Tiến bị kỉ luật về phía sau rồi nhất định xin xuống đơn vị chiến đấu. Và Tiến được toại nguyện. Dưới đây là trích đoạn:

“... Trời mùa mưa Tây Nguyên lúc nào cũng xin xỉn màu nước rau khoai lang. Tiến nhận ra điều này từ hôm lên chốt. Mỗi ngày một người bò đi tìm thức ăn. Chủ yếu là hoa chuối và rau khoai lang trên các rẫy bỏ hoang vì bom đạn. Khiếp, có một cái ăng gô nước rửa đến vài kí rau khiến nước rửa rau đặc quánh như dầu ma dút. Ấy vậy mà luộc lên thơm ngát mũi. Nước rau đục lờ lờ hệt màu trời mưa Tây Nguyên. Một hôm anh “Chương bánh sắn” sang hầm Tiến. Anh Chương xin quai dép của Tiến. Thằng Tiến mở cóc ba lô lấy cuộn dây dép còn nguyên dây buộc bằng sợi dây chỉ dù tẩm cao su. Chương bảo, quý lắm đấy nha mày. Dép tao đi lâu năm nên quai hết bom bê dễ tụt lắm. Thằng Tiến cắt một đoạn dây đưa cho anh Chương, Chương bánh sắn rút cái quai dép bèn bẹt nhão nhoét ra rồi bặm môi thay quai mới. Cái quai cũ Chương đút cẩn thận vào túi. Rồi Chương kể, có một đêm địch lên tập kích. Một thằng trong bê mình bị thương đưa vào hầm tối om không biết vết thương ở đâu mà băng. Chỉ thấy máu chảy đầm đìa. Chương lật dép, cắt khúc thừa dưới đế một quai dép chừng ba phân, rồi đốt lên tìm vết thương mà băng bó cho đồng đội trong lúc mấy thằng khác lấy ni lông che kín cửa hầm không cho ánh sáng thoát ra. Đêm ấy thằng Tiến lại ngửi thấy mùi quai dép thơm kiểu thành thị.”

Và đây là câu chuyện người lính thông tin đối thoại với lính Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn hai bên đang xây dựng nhà hòa hợp. Một câu chuyện hi hữu vô kỉ luật nhưng lại cảm động đáng suy ngẫm về tình con người:

“… Sau trận đồi Củ Lạc thằng Tiến được gọi về B thông tin. Họ bảo, lí lịch nhà nó rất chi là cơ bản. Con nhà bần nông, không bóc lột ai, vào hợp tác xã đợt đầu, lại học hết lớp 9. Tiến được học máy 2W. Chỉ vài tháng là nó đã thành lính thông tin cứng cựa. Những ngày sau hiệp định cắm cờ ở đồn X30 kéo sang làng Pờ lây Dit. Hai bên làm nhà hòa hợp để gặp nhau cùng thực hiện các điều khoản thi hành. Cái nhà hòa hợp có hai lá cờ cắm vào đầu mùa mưa năm 1973 cứ ỉu xìu không bay lên được. Cán bộ ta và sĩ quan bên họ nói chuyện cứ sường sượng lên gân mà chả ngày nào có nổi một nụ cười. Tổ đài trực của thằng Tiến ở đường 19 chỗ có một cái vườn mít bạt ngàn màu xanh. Quân ta thường chỉ ăn mít xanh chứ không ai thích mít chín. Được trực đài ở khu đồn điền mít thật là thú vị. Hôm ấy, ngồi dò sóng Tiến gặp đối phương. Lúc đầu nghe giọng miền Nam gọi nhau chim cắt chim sẻ thấy tưng tức. Tiến nói chõ vào, chim gì chim gì. Người Việt Nam chỉ có chim Lạc mới là linh thiêng nha nha. Giọng nửa Nam nửa Bắc thế mà hay. Bên đối phương im lặng hồi lâu rồi có tiếng trả lời. Dạ ông! Chim Lạc thì đúng là chim thiêng rồi ông. Lần đầu tiên thằng Tiến sững người. Nó im thít. Bỗng nó nói thật nhẹ. Tôi cám ơn.

Im lặng. Rồi bên kia lên tiếng. Ông ơi ông có nhớ nhà không? Tôi đang nhớ nhà đây. Thằng Tiến buột miệng, ai mà chả nhớ nhà, mà anh có vợ chưa. Tôi chỉ nhớ bố mẹ thôi vì tôi chưa có vợ.

Im lặng.

Bên kia có tiếng cũng rất nhẹ. Ông ơi ông hát cho tôi nghe một bài hát miền Bắc đi ông. Tôi cũng gốc miền Trung xứ Nghệ đó ông. Ông hát bài chi mà Bác dzẫn còn nghe địu hò dí dzăm đó ông. Thằng Tiến nói, ồ đó là bài hát nhớ Bác Hồ trồng cây. Nhưng tôi hát xong anh phải hát một bài cải lương nhá. Dạ vâng ông. Bỗng có tiếng quát:

- Đồng chí Tiến tắt đài ngay.

Tiến quay lại thì thấy trung đội trưởng thông tin đi kiểm tra đang dí súng vào vai mình. Ngay hôm đó mọi mật khẩu và dải sóng của đơn vị Tiến đều bị thay đổi.

Thằng Tiến bị đưa về anh nuôi tiểu đoàn và bị khai trừ khỏi Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Nó buồn như một cái bóng. Nó xin về đơn vị chiến đấu. Xuống đơn vị chiến đấu nó vẫn chỉ làm anh nuôi và luôn bị cán bộ đề phòng xét nét. Nó ghi vào nhật kí, cuốn nhật kí là cuốn sổ tu dưỡng đoàn viên… Tôi đã sai rồi, tôi không xứng đáng với anh em đồng đội của mình.”

Nhưng đỉnh điểm câu chuyện của tôi là trận đánh đồi Củ Lạc. Chúng tôi đào trận địa mai phục địch đi giải tỏa cho bọn địch bị đánh trong căn cứ. Trong trận đánh ấy trung đội tôi bắt được một tù binh cứng tuổi người Bắc di cư. Tôi trói tên tù binh bằng cuộn dây dép cao su vì không có dây dù mang theo. Tên tù binh bị cuộn dây dép thít chặt đến nỗi rập đầu xin tôi trói bằng dây khác. Lúc đó địch pháo kích vào trận địa và có khả năng máy bay đến ném bom nên chúng tôi được lệnh rút lui, trung đội trưởng cho lệnh “giải quyết” tên tù binh này. Thực tình lúc này tôi không nỡ bắn tên tù binh và không hiểu sao lại nghĩ ra cách thả bằng cách trói tay nó và chỉ nó chạy ra đường lớn còn mình bắn lên trời hai phát AK để trung đội đang rút chạy tưởng là tôi đã thịt tên tù binh. Sự việc này tôi cũng đưa vào truyện ngắn:

“... Trận đánh đồi Củ Lạc của đơn vị Tiến hôm ấy diệt được cả xe tăng. Bọn lính Trung đoàn 53 ngụy bỏ lại vài chục cái xác và một tên bị bắt sống. Thằng lính này khai là lao công đào binh. Lao công đào binh mà lại tấn công theo sau xe tăng à? Anh Nhớn quát. Nó im thít. Tiến nhìn nó dễ đến ngoài ba mươi tuổi. Anh Nhớn hô:

- Tiến trói tên này lại. Xử lí nó khẩn trương rồi rút, kẻo máy bay nó thiêu trận địa bây giờ.

Tiến quýnh lên. Chợt nhớ tới cuộn dây dép dàì hơn mét trong cóc ba lô, tháo ra trói chân tên tù binh. Trói xong thì nó khóc:

- Ông ơi ông nới cho tôi, tôi sắp chết rồi chân tôi tụ máu.

Nhìn dây cao su siết chặt đến nỗi tên tù bình thở khò khè, Tiến quanh quẩn tìm dây rừng. Tên tù binh bảo:

- Ông ơi, trong bao đồ của tôi có dây dù, ông lấy ông trói hộ tôi.

Tiến vội móc lấy đoạn dây võng trói tay nó và tháo dây cao su ra. Có tiếng gọi. “Tiến, rút thôi!” Tên tù binh nhìn Tiến như tuyệt vọng. Xử lí tên tù binh này thế nào? Bắn à? Hay thả? Thả nó là mình lại bị kỉ luật. Bắn nó bây giờ cũng chả hơn được gì. Chỉ được rảnh nợ để mà rút. Tiến xách súng lên. Tên tù binh mặt đờ dại gần như mê muội. Tiến đến gần tên lính hỏi:

- Chân hết tụ máu chưa? Chạy được không?

Tên tù binh đầu gật gật, miệng lắp bắp. Tiến khẽ nói:

- Vậy tôi trói tay anh và anh chạy về phía bên kia đường khi chúng tôi đã đi rồi, nghe chưa!? - Nói rồi Tiến chỏng AK lên giời bắn đoàng đoàng. Tên tù binh nhắm mắt, gục đầu xuống. Rồi nó mở mắt nhìn Tiến. Nước mắt nó ứa ra.

Tiến vác khẩu AR15 và cái ba lô lính ngụy hai cóc lên vai rời trận địa. Lúc ấy một cơn mưa ập tới. May. Thế là không có chiếc tàu bay nào tới thả bom. Chừng ba mươi phút sau mới thấy pháo địch bắn trùm trận địa. Tiến nghĩ giờ này tên tù binh cũng chạy thoát rồi.”

Chuyện vui buồn diễn ra trong những ngày tôi ở đơn vị chiến đấu phía tây Pleiku thì nhiều lắm. Nhưng tôi chỉ gom chuyện liên quan đến cuộn dây dép, lắp ráp thứ tự rồi mắm muối thành truyện ngắn Đại gia dép lốp.

Sau chiến tranh tôi trở về trường đại học cũ. Tôi lại theo học ngành cơ khí mà khi xưa tôi mới học đến năm thứ 3. Ra trường tôi làm giám đốc một doanh nghiệp thép ở Hà Nội. Tôi vẫn đi dép cao su và không hiểu sao đến bây giờ tôi vẫn rất thích mùi của nó. Những chi tiết này cũng được tôi đưa vào truyện:

“Chiến dịch Tây Nguyên, Tiến bị thương nhưng quyết không đi viện, cứ bám theo đơn vị đi đến tận trận cuối cùng ở Đồng Dù. Sau chiến dịch này Tiến được thưởng Huân chương Chiến công. Năm sau hạ sĩ Tiến, đoàn viên Thanh niên Lao động ra quân, đi học tiếp cấp 3 và thi vào đại học. May mắn nhất là cuộn dây dép Tiến mang về chỉ mất một đoạn thôi, có thể dùng cả đời chưa hết. Ngoại trừ các cuộc họp phải diện com lê cà vạt ông Tiến mới chịu đi giày, còn không, đại gia thép chỉ chí thú với đồ lính và dép cao su. Mấy cô nhân viên trẻ xinh đẹp nhiều lần gặng hỏi: Sếp ơi, dép lốp có cái gì mà sao sếp lại say đắm thế? Ông mỉm cười ý nhị đáp lời: À, vì tôi thích cái mùi. Mùi dép cao su là mùi rất chi là công nghiệp.”

Nguyên mẫu là tôi - người được chứng kiến. Tôi có dùng một vài sự việc của đồng đội đưa vào tính cách của chính mình trong truyện ngắn. Tôi nghĩ dù có hư cấu thêm đến mấy nó cứ vẫn là chuyện của tôi một thời chinh chiến đã qua.

N.T.L