. HOÀNG ĐÌNH BƯỜNG
Cuối tháng 12/1972, sau mấy trận đánh dọn đường ở vùng giáp ranh Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, c3, k1, e6 tạm đứng chân ở dãy đồi Mồ Côi gần quốc lộ 1A, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Mưa xối xả xuống những căn hầm dã chiến, nước nhỏ tí tách, bùn đất nhão nhoẹt, chẳng có chỗ nào khô ráo để nương thân. Áo quần lúc nào cũng ẩm ướt, bốc mùi sặc sụa. Củi cõng ở miền Tây xuống, mua vét gạo dưới đồng bằng lên, cố gắng lắm cũng chỉ được ba bốn lạng gạo một ngày, chia làm hai bữa. Rau rừng cạn kiệt. Cây dương xỉ và lá rau nhớt còn lại cũng không nhiều. Trời thì bổ sung mưa liên tục. Hai hàm răng luôn đánh vào nhau cầm cập. Bụng cồn cào kêu đói.
Phóng tầm mắt xuống đường quốc lộ, người và xe cộ vẫn tấp nập ra vào như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng chúng tôi hiểu, một “trái phá” cực lớn đang âm ỉ nén chặt chuẩn bị châm ngòi trước Tết Quý Sửu, trước ngày kí Hiệp định Paris. Dân chúng không thể nào biết, địch cũng sẽ hết sức bất ngờ nếu kịch bản chiến trường diễn ra đúng kế hoạch. Tết sắp đến nhưng chúng tôi chưa có thứ gì để đón xuân.

Bộ đội giải phóng tiến vào cổng Ngọ Môn Huế trong ngày giải phóng Thừa Thiên - Huế. Ảnh: TL
Bữa cơm chiều hôm ấy, ngoài muối và dương xỉ còn có thêm ớt chỉ thiên và cả thuốc lá Tà Ôi do mấy chiến sĩ đi viện mang về. Tôi và Đại đội trưởng Nguyễn Đình Bách được xếp “thứ hạng” cao trong kỉ lục ăn ớt miền Tây. Ăn cơm có ớt xúc tác lại được hút thuốc lá Tà Ôi, sướng biết mấy. Có điều, trời mưa, chỉ ăn cơm với muối giữa rừng, đói ơi là đói. Đói kinh khủng, tê lạnh cả người.
Đơn vị đang tích cực chuẩn bị để tấn công cao điểm eo Cổ Cao trên dãy đồi Mồ Côi. Muốn đánh địch phải trinh sát, điều nghiên ít nhất vài ba lần.
Trinh sát tiểu đoàn cùng cán bộ đại đội, trung đội đã đi thực địa hai lần, tạm ổn. Ở chiến trường, do yêu cầu nhiệm vụ, có khi không trinh sát kĩ cũng phải đánh nhưng phần nhiều đều có sự chuẩn bị chu đáo. Tính mạng con người là trên hết. Phương án tác chiến tốt phải trên cơ sở nắm địch chắc, biết rõ công sự và sự bố phòng của chúng.
Lần đi điều nghiên cuối cùng mở rộng thêm thành phần tiểu đội trưởng và hỏa lực B41. Tôi tham gia trong đoàn xuất kích lên eo Cổ Cao buổi chiều.
Sau khi kiểm tra trang bị, chúng tôi lặn vào rừng mưa. Mảnh nilon khoảng một mét vuông trùm lưng cho đỡ ướt nhưng khi gần đến chân cao điểm là phải gập lại, dắt vào thắt lưng. Đầu trần, quần đùi, chân di dép cao su có tất cao tận đầu gối, di chuyển theo động tác trinh sát hết sức nhẹ nhàng.
Đội hình chia thành nhiều nhóm nhỏ, tiến theo hình cánh cung quanh cao điểm. AK báng gập, súng ngắn K54 luôn luôn mở khóa an toàn hướng về phía trước. Quả lựu đạn US chèn bên lưng, lật qua lật lại theo tư thế trườn bò. Mỗi người cách nhau khoảng năm mét, nhích dần như sâu đo trong mưa. Ai cũng tím tái mặt, áo quần dính sát da, run như cầy sấy nhưng cố mím chặt môi để hai hàm răng khỏi đánh vào nhau.
Chúng tôi đã tới gần sát đỉnh, có thể quan sát rõ cách bố phòng của địch. Mắt ai cũng hướng lên đồi tìm mục tiêu theo nhiệm vụ đã được phân công. Tôi chú ý nhiều đến ụ đại liên, cửa hầm lớn của địch để hôm sau bắn B41 vào đó và không quên quan sát những gốc cây to, tảng đá lớn để trong đêm có thể nhảy xổ vào sau khi bắn, tránh cối cá nhân M79 của Mĩ.
Càng gần sát đỉnh, cây càng ít, dễ quan sát nhưng cũng dễ bị địch phát hiện. Mặt khác, các phương tiện hỗ trợ và cạm bẫy mìn của địch rải dày đặc quanh cao điểm sẵn sàng phát huy tác dụng. Và phút giây định mệnh cũng đã đến. Một quả mìn Claymore phát nổ, bi bay rào rào cắm vào thân cây, phát quang lá rừng. Các nhóm đều nằm rạp, im lặng chờ phản ứng của địch để kịp thời xử lí. Địch nhả đạn như mưa, nhất là chỗ quả mìn vừa nổ. Chúng tôi lui về sau khoảng ba mét, lợi dụng địa hình, nằm chờ cơ hội. Đồng chí Hà Văn Tựu, Chính trị viên đại đội tự bò đi kiểm tra và phát hiện Đại đội trưởng Nguyễn Đình Bách đã hi sinh.
Đạn AR15 thưa dần nhưng tiếng nổ M79 thì dồn dập hơn. Có điều, đa số đều nổ phía sau chúng tôi. Dày dạn kinh nghiệm trận mạc, chúng tôi luôn bám sát gần địch, độ an toàn cao hơn. Khoảng thời gian chờ trời tối đối với chúng tôi lúc này tưởng như vô tận. Ngoài cảnh chịu hỏa lực địch quét liên tục xung quanh còn là chuyện xác Đại đội trưởng Nguyễn Đình Bách đang ở sát cao điểm.
Lợi dụng lúc chập choạng, tiếng súng thưa dần, Chính trị viên Hà Văn Tựu cùng Đại đội phó Hùng và mấy chiến sĩ trinh sát bò lên tìm cách lấy xác. Nhưng hình như địch biết ta làm điều này nên súng vẫn cứ chĩa vào đó mà nổ, không ai đến gần được.
Quay về với chúng tôi, mặt đồng chí chính trị viên đen sạm, trầm ngâm, mắt nổi lên những tia máu. Chúng tôi rút lui trong cảnh gió mưa não nùng, buồn đau tê tái. Đồng chí Nguyễn Đình Bách đêm nay nằm lại một mình. Bữa ăn tối nay vẫn thế, vẫn cơm muối và có cả ớt chỉ thiên nhưng cảm thấy đắng chát. Ăn nhanh quấy quá, ai nấy lăn ra trong hầm cố chợp mắt lấy sức. Sáng ra tôi thấy khuôn mặt chữ điền của chính trị viên quấn một vành râu quai nón rậm rì, chắc đêm qua anh không ngủ.
Ban chỉ huy đại đội đã quyết định tổ chức đi lấy xác đồng chí Bách trong buổi chiều. Chính trị viên Hà Văn Tựu đích thân dẫn đường. Anh từng là đại đội trưởng trinh sát nên việc bò lên sát công sự địch không có gì đáng ngại. Tinh thần dũng cảm thì có lẽ không cần gì phải bàn. Cán bộ thời chiến là thế.
Hai lần tổ chức lấy xác đều không thành vì hỏa lực của địch quá dày đặc. Chính trị viên Hà Văn Tựu quyết định cho một số chiến sĩ trong đêm xuyên rừng, gùi đất lên phủ kín người anh Bách. Mưa vẫn dội rào rào như trút nước. Xót xa lắm nhưng đành nén lòng vĩnh biệt anh rồi lặng lẽ rút xuống.
*
* *
Rất may là hài cốt liệt sĩ Nguyễn Đình Bách đã được tìm thấy và đưa về quê an táng, là làng Tứ Chánh, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế vào năm 2006. Biết tin, tôi vội tìm đến. Căn nhà cấp 4 phong phanh, cửa sổ thông thống gió lùa. Bàn thờ không có ảnh người đã khuất. Ngày mất cũng sai lệch. Tôi khẳng định anh Bách hi sinh ngày 03/01/1973 tức là ngày 29/11 năm Nhâm Tý để gia đình lấy làm ngày giỗ chính thức.
Tôi thắp hương đứng trước bàn thờ anh, không hiểu sao cái hòm thư chiến trường chợt hiện về. 740966TMO2, đó là hòm thư mật của đơn vị tôi, Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6. Cái hòm thư nhắc tôi nhớ lại bao kỉ niệm gian khổ, ác liệt và cả sự đau buồn trong đó có chuyện trên đồi Mồ Côi. Chỉ trong vòng một năm (đầu 1972 đến đầu 1973), đơn vị tôi đã hi sinh mất năm cán bộ đại đội. Đó là các đồng chí Tuyến, Toản, Bách, Tỉnh, Quân và hàng trăm chiến sĩ đã ngã xuống trên chiến trường Trị - Thiên.
Những ngày sau đó tôi đã liên lạc được với Hà Văn Tựu. Được biết anh ra quân sớm với cấp hàm đại úy, Tham mưu phó Trung đoàn 6. Cuộc sống ở quê hương Bắc Giang khá chật vật, anh cùng gia đình vào định cư ở xã Bàu Cạn, Long Thành, Đồng Nai. Anh có một con trai, ba con gái và dâu rể hầu hết đều làm nghề dạy học. Không giàu có gì nhưng kể ra, thế cũng là đầm ấm lắm rồi.
Tôi tìm về chiến trường xưa. Đã hơn 50 năm trôi qua, biết bao đổi thay. Phía trong đồi Mồ Côi là vườn quốc gia Bạch Mã, xuôi xuống biển là cảng Chân Mây rộn ràng, vòng sang bên kia là Bà Nà, là thành phố Đà Nẵng. Ngay bên cạnh nơi Nguyễn Đình Bách hi sinh là khu nghỉ dưỡng Thanh Tân.
Việc xây dựng các công trình, khu vui chơi giải trí… để phục vụ du lịch, phát triển kinh tế đất nước là đương nhiên, những cựu chiến binh như tôi mừng lắm. Nhưng không hiểu sao vẫn cứ chạnh lòng mỗi khi nghĩ tới hình ảnh ngôi mộ Nguyễn Đình Bách được đắp vội bằng những gùi đất trong cơn mưa tầm tã trên đồi Mồ Côi. Hình ảnh ấy như cái sẹo to tướng trong tôi mà thời gian chưa xóa nhòa được.
H.Đ.B