Thứ Năm, 18/09/2025 11:11

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

. THẾ ĐỨC
 

Tiểu thuyết Trăng lên được tôi viết dựa trên cảm hứng về một làng quê trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: làng Thượng! Làng Thượng chính là quê hương của tôi, nằm ven bờ Nhuệ giang vô cùng thơ mộng. Trước khi làng Thượng bị quân đội Pháp chiếm đóng vào cuối năm 1946, đội du kích của làng chỉ có vài chục người, với những trang bị vũ khí rất thô sơ như súng trường, lựu đạn, chông, mìn, nhưng đã rất nhiều lần đánh bật quân Pháp về càn với ý định chiếm đóng lâu dài mảnh đất ngàn đời cha ông. Tiểu thuyết Trăng lên của tôi được viết dựa trên lời kể của những nguyên mẫu, những con người ở ngoài đời thực đã từng tham gia trong những trận chiến đấu một mất một còn và vô cùng anh dũng như thế.

Trong tiểu thuyết Trăng lên, tôi đã đổi tên làng Thượng thành làng Vân Nhuệ. Sở dĩ có cái tên ấy bởi trong gia phả của làng Thượng để lại thì từ xa xưa, làng Thượng đã có cái tên gọi là Vân Nhuệ. Những nhân vật trong tiểu thuyết Trăng lên hầu hết đều là những con người có thật ở ngoài đời. Trong gần năm mươi nhân vật của tiểu thuyết, có những nhân vật chủ đạo xuyên suốt tác phẩm như “ông nội”, “bà nội”, “cha tôi”, “mẹ tôi”, chị Gái, và Đặng Vũ… Trong sáu nhân vật kể trên, nhân vật “cha tôi” có tên là Nguyễn Văn Thắng là một trường hợp đặc biệt. Ở ngoài đời thực, ông có tên là Nguyễn Văn T… Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ông T… chỉ là một cán bộ địa phương. Nhưng trong tiểu thuyết, tôi đã “xây dựng” ông là một nhà tình báo, trà trộn trong dòng người di cư vào Nam để hoạt động bí mật giữa lòng địch. Mặc dù là nhân vật trung tâm của tác phẩm, nhưng bóng dáng ông Thắng chỉ thấp thoáng xuất hiện trong phần đầu của tiểu thuyết, rồi bặt vô âm tín cho tới tận ngày ông bị hi sinh với quân hàm thiếu tướng. Ở đây, tôi đã muốn giấu kín thân phận của nhân vật này, nhằm gây sự chú ý, tò mò và căng thẳng đến tột cùng cho độc giả bởi sự phân biệt đối xử của xóm làng đối với gia đình ông, chỉ đến khi mọi chuyện đã rõ ràng, mọi người mới vỡ oà, thở phào…

Ngoài ông tôi, nhân vật chị Huệ cũng có nguyên mẫu ngoài đời thực. Nhân vật này được gợi cảm hứng từ bà Được - một nữ du kích vô cùng anh dũng đã trở thành huyền thoại của làng. Trong một lần trò chuyện, bà Được kể cho tôi nghe câu chuyện về trận đánh cuối cùng trước khi làng Thượng bị rơi vào sự chiếm đóng của quân Pháp. Cả hai bên giành giật nhau từng mét đất trên con đường nhỏ dẫn vào làng. Đội du kích đã lợi dụng sự thông thạo thổ nhưỡng, tận dụng tối đa từng mô đất, lùm cây, từng hố chông, bãi mìn đã cài sẵn để đánh trả quân Pháp. Nhưng vì quân số của giặc đã vượt trội hẳn, lại được trang bị vũ khí hiện đại hơn rất nhiều nên đội du kích chỉ cầm cự được đến chiều tà thì vỡ trận. Khi quân Pháp tràn vào làng, đa phần đội viên du kích đều kịp thời rút xuống hầm bí mật, đợi đêm đến sẽ vượt sông sang bên kia là vùng tự do để lánh nạn, chỉ còn một tổ ba du kích, trong đó có bà bị bao vây, không còn đường rút nên buộc phải trèo lên căn nhà hai tầng của một địa chủ trong làng đã bị Cách mạng tịch thu hồi năm 1945 để cố thủ. Căn nhà chỉ có một cầu thang là lối duy nhất để lên xuống. Mặt tiền và hai bên hồi cùng nằm trên cái sân khá rộng trong khuôn viên của căn nhà, còn bức tường hậu thì chạy dọc theo một ngõ nhỏ là lối đi chung của hàng xóm. Hàng chục tên lính Pháp đứng lố nhố dưới sân, bắc loa kêu gọi đầu hàng.

Nghe đến đây tôi hỏi bà Được: “Khi ấy bà có thấy sợ không?” Bà Được cười và trả lời không một chút do dự: “Cả ba người đều xác định cái chết là không thể tránh khỏi nên đã quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ nhất định không chịu đầu hàng.” Rồi bà tiếp tục thuật lại câu chuyện: “Kêu gọi mãi không được, một tên lính Pháp được lệnh tung lựu đạn lên. Quả lựu đạn rơi xuống vị trí ban công mặt tiền. Quả lựu đạn xì khói nhưng vẫn chưa nổ. Chính bà đã nhanh chóng chớp thời cơ, lao ra, chộp lấy, rồi ném trả lại. Khi quả lựu đạn còn chưa kịp chạm đất thì phát nổ. Một số lính Pháp chết và bị thương. Số còn lại hoảng sợ nằm rạp xuống. Lợi dụng thời khắc có một không hai đó, cả ba du kích đã nhanh chóng men theo ban công, vòng về điểm mút sát với bức tường hậu, nhảy xuống đống rơm nhà hàng xóm, trốn thoát. Một lát sau, bọn lính Pháp lổm ngổm bò dậy, tưởng những người du kích kia vẫn còn trên tầng hai, lại sa sả kêu gọi đầu hàng nhưng mãi vẫn không thấy động tĩnh gì. Hết sức tức tối, bọn lính Pháp hè nhau chất rơm, đốt lửa ở lối lên gác cho khói xông lên, hi vọng những người du kích trên đó không thể chịu nổi, sẽ phải đầu hàng…

Kể xong, bà Được cười, rồi nói với tôi: “Bình thường, đứng ở trên tầng hai của căn nhà gác ấy, chỉ cần nhìn xuống cũng đủ thấy chóng cả mặt rồi, chứ nói gì là nhảy xuống như thế...” Câu chuyện của bà Được quả là nguồn tư liệu quý giá đối với người viết, ngồn ngộn chi tiết, chân thực, sâu sắc, sinh động, kịch tính. Khi viết Trăng lên, tôi gần như “bê nguyên” các chi tiết bà kể vào, chỉ thêm thắt chút đỉnh không đáng kể.

Nhân vật “ông nội” cũng được viết từ một nguyên mẫu có thật ở ngoài đời mà tôi không tiện nêu tên. Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết. Trong các câu chuyện cụ kể, tôi đặc biệt chú ý đến câu chuyện cụ đã tham gia trận đánh của bộ đội huyện về giải phóng làng. Trong đêm ấy, cụ được giao nhiệm vụ chở đò đưa ban lãnh đạo của trận đánh sang sông. Rồi cụ lại được giao nhiệm vụ ở lại canh gác thuyền đò, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có tình huống xấu xảy ra trong cuộc đọ sức một mất một còn này. Đang ngồi trên thuyền, nghe tiếng súng nổ dữ dội, cụ bỗng linh cảm tới sự nguy hiểm của thằng cháu họ cũng là đội viên du kích có người yêu bị tên trưởng đồn Pháp cướp về làm vợ, nhân cơ hội này rất có thể sẽ liều mình xông vào đồn giặc để cứu người yêu. Cụ vội vàng rời vị trí, lao như bay tới phía đồn giặc. Trong đêm tối mịt mùng, cụ đã vận dụng nghề võ một cách hết sức linh hoạt như người có phép tàng hình, để từ xà ngang của căn nhà, nhảy ào xuống cạnh tên đồn trưởng đang giơ khẩu súng bé tẹo nhắm vào cháu mình đang bế trên tay người yêu đã bị hắn ra lệnh giết chết. Nhanh như cắt, cụ tung cú đá cực mạnh khiến khẩu súng văng khỏi tay hắn, rồi lại bồi thêm cho hắn mấy quả đấm cực mạnh nữa khiến hắn ngã gục, ngất xỉu. Sau đó, cụ đã không giết hắn mà giao cho cháu mình xử lí. Vì quá căm phẫn, tên đồn trưởng đã bị ông cháu của cụ dí súng vào ngực và… bóp cò. Sau khi tên đồn trưởng chết, quân Pháp mất chỉ huy tức khắc vỡ trận. Bộ đội huyện đã nhanh chóng chiếm đồn giặc, giải phóng được làng Thượng đỡ tốn rất nhiều xương máu cho bộ đội và du kích của ta…

Kể xong câu chuyện, cụ cười khà khà, rồi nói tiếp: “Tôi chỉ đến chậm vài giây nữa thì thằng cháu tội nghiệp của tôi sẽ bị ăn đạn mà cũng có cứu được người yêu đâu!” Rồi nụ cười trên môi cụ bỗng vụt tắt. Có vẻ như cụ rất xúc động về câu chuyện vừa rồi. Giọng nói của cụ trầm hẳn lại: “Xét cho cùng, chiến tranh, mình không giết nó thì nó cũng giết mình, chứ tay đồn trưởng ấy cũng có gia đình như mình. Chắc bây giờ, cha mẹ, vợ con anh ta ở bên Pháp cũng đau khổ lắm. Cứ suy từ bụng mình ra thì cũng đủ biết...” Câu chuyện của cụ tất nhiên cũng được tôi “chế biến”, “thêm thắt” đưa vào Trăng lên.

Trong số những nguyên mẫu để xây dựng nên tiểu thuyết Trăng lên, còn có một nhân vật khá thú vị nữa, đó là ông Sáng. Ông Sáng được xây dựng dựa trên cuộc đời của một địa chủ trong làng đã bị xử tội chết trong thời kì cải cách ruộng đất nhưng lại thoát được cái chết một cách rất ngoạn mục. Những người cán bộ chân chính đã chủ trương bảo vệ những địa chủ không có nhiều tội ác với nhân dân, tạo cho họ một cơ hội lập công chuộc tội trong chế độ mới. Nhưng rốt cuộc, họ vẫn không thể bảo vệ được địa chủ Sáng bởi phái bảo thủ bằng mọi thủ đoạn đã kiên quyết khép ông ta vào tội chết. Khi ông Sáng bị trói vào cột thì bỗng dưng có một trận mưa đá trút xuống rất dữ dội khiến đội hành quyết không thể nổ súng được. Trong thời khắc kì lạ ấy, những người cán bộ chân chính đã nhận được quyết định sửa sai của Nhà nước và đã kịp thời có mặt tại pháp trường, ra lệnh ngừng thực thi bản án tử hình dành cho ông Sáng. Sau này, do nhu cầu nghệ thuật, ở phần cuối của tiểu thuyết, tôi đã để cho nhân vật Sáng lại bị chết vì bom Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc vào giai đoạn thứ nhất. Khi ấy, ông Sáng vì quá căm phẫn sự đối xử của những người lãnh đạo địa phương thuộc phái bảo thủ trước đây mà nuôi ý chí phục thù họ bằng những suy nghĩ rất độc ác, có thể nói là cực kì man rợ. Việc ông Sáng được cứu sống rồi lại bị bom Mĩ giết chết trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt như vậy đã chứng minh hùng hồn cho cái triết lí sống “Ở hiền gặp lành” và tất nhiên… ở ác sẽ gặp điều ngược lại.

Tiểu thuyết Trăng lên đã được Bộ Quốc phòng trao giải thưởng văn học giai đoạn 2020 - 2025 về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Tôi nghĩ, để có được thành công như vậy cũng là do mình có được nhiều nguyên mẫu sống động ở ngoài đời thực. Họ đã cung cấp cho tôi những chi tiết vô cùng quý giá mà không phải bất cứ nhà văn nào cũng có được cái cơ may như thế...

T.Đ